Định cư Lãnh_thổ_Mississippi

Vùng đất rộng lớn, rẻ tiền và tốt để trồng bông vải đã thu hút nhiều đoàn người định cư đến đây, đa số là từ Georgia, Nam/Bắc Carolina và từ các khu vực trồng cây thuốc lá của Virginia và Bắc Carolina vào thời điểm khi mà việc trồng cây thuốc lá không còn sinh nhiều lợi nhuận. Từ năm 1798 đến năm 1820, dân số tăng vọt từ dưới 9.000 lên đến trên 222.000 người. Di dân đến thành hai đợt khá rõ rệt – một phong trào di dân đều đặn cho đến khi xảy ra Chiến tranh 1812 và một dòng thác di dân từ năm 1815 đến 1819. Dòng thác di dân sau chiến tranh xảy ra vì nhiều nguyên cớ khác nhau trong đó phải kể là giá bông vải tăng cao, sự loại bỏ quyền làm chủ đất của đa số người bản địa Mỹ, đường sá mới và cải thiện, và sự tận dụng được các con đường đi mới trực tiếp đến Vịnh Mexico. Các di dân đầu tiên là các thương gia và thợ đánh bẫy thú, sau đó là những người chăn nuôi, và cuối cùng là các nông gia. Biên cương tây nam sản sinh ra một xã hội tương đối dân chủ.[3]

Bông vải

Sau năm 1800, sự phát triển nền kinh tế bông vải tại miền Nam đã làm thay đổi quan hệ kinh tế giữa người bản địa Mỹ và người da trắng với nô lệ của họ tại Lãnh thổ Mississippi. Khi người bản địa Mỹ nhượng lại đất đai của họ cho người da trắng, họ trở nên cô lập hơn với người da trắng và người da đen. Một làn sóng to lớn mua bán đất củ của người bản địa Mỹ cộng thêm cuộc di dân (cùng với nô lệ) vào Lãnh thổ Mississippi đã bảo đảm sự thống trị của nền kinh tế bông vải đang phát triển.[4]

Chính quyền

William C. C. Claiborne (1775–1817), một luật sư và cựu nghị sĩ thuộc đảng Dân chủ-Cộng hòa của Tennessee (1797–1801), là thống đốc kiêm giám đốc cục Bản địa vụ tại Lãnh thổ Mississippi từ năm 1801 đến 1803. Tuy muốn thu thêm một số đất đai từ người bản địa Choctaw và Chicasaw nhưng Claiborne rất đổi cảm thông và có thái độ dễ làm lành với người bản địa Mỹ. Ông làm việc bền bỉ và kiên nhẫn để giải quyết những khác biệt nãy sinh và cải thiện phúc lợi vật chất cho người bản địa Mỹ. Ông cũng thành công trong việc đề cao việc thực thi luật pháp và trật tự như việc ông ra giải thưởng 2.000 đô la để giúp phá tan một nhóm tội phạm do Samuel Mason (1750–1803) cầm đầu. Lập trường của ông đối với các vấn đề chứng tỏ ông có một tầm nhìn quốc gia hơn là vùng mặc dù không ông phớt lờ các vấn đề địa phương của mình. Claiborne biểu lộ triết lý của đảng Cộng hòa và giúp đảng này đánh bại những người theo đảng Liên bang. Khi dịch bệnh đậu mùa bùng phát vào mùa xuân năm 1802, hành động của Claiborne là một cuộc tiêm chủng rộng khắp được ghi nhận đầu tiên trong lãnh thổ và đã cứu được Natchez khỏi căn bệnh.[5][6]

George Mathews, một cựu thống đốc của tiểu bang Georgia, được bổ nhiệm làm thống đốc mặc dù việc bổ nhiệm bị thu hồi trước khi ông nhận chức.[7] David Holmes là thống đốc cuối cùng của Lãnh thổ Mississippi, 1809–17. Holmes nói chung thành công trong việc đối phó với vô số các vấn đề trong đó có việc mở rộng, chính sách đất đai, người bản địa Mỹ, Chiến tranh 1812, và đại hội hiến pháp 1817 (ông được bầu làm chủ tịch đại hội này). Thường luôn quan tâm với các vấn đề có liên quan đến Tây Florida, ông có vai trò chính yếu trong các cuộc thương thuyết vào năm 1810 mà qua đó dẫn đến việc chiếm đóng hòa bình một phần đất của Tây Florida. McCain (1967) kết luận rằng thành công của Holmes không phải dựa vào tài năng sáng suốt mà nhờ vào sự lương thiện, không ích kỷ, tính thuyết phục, cam đảm, thành thật, ngoại giao, và thông minh.[8]

Nữa phía đông của Lãnh thổ Mississippi Territory được gán tên là Địa khu Tombigbee và sau này có tên là Quận Washington. Bị phớt lờ bởi chính quyền lãnh thổ, dân cư ngụ trong lãnh thổ bị bao vây bởi sự thù nghịch của người láng giềng, các dân quân bản địa Mỹ, và các vấn đề thông thường của vùng biên cương là tranh giành chủ quyền đất đai và thiết lập luật pháp. Các giải pháp cho các khó khăn này trở nên chậm chạp, và không hoàn toàn được giải quyết vào lúc phần còn lại của lãnh thổ trở thành tiểu bang Alabama vào năm 1819.[9]

Luật pháp

Luật phổ thông Anh thống trị sự phát triển hệ thống tư pháp tại Lãnh thổ Mississippi. Người dân xem luật pháp mà Winthrop Sargent, thống đốc lãnh thổ, áp đặt là áp bức và vi hiến. 'Bộ luật Sargent', tuy không được lòng dân chúng nhưng đã thiết lập ra hệ thống tòa án đầu tiên cho lãnh thổ và phục vụ trong vai trò tiền thân cho các tu chính sau này. Đao luật tư pháp năm 1802 đơn giản hóa đáng kể hệ thống tòa án. Một số đạo luật tái tổ chức tư pháp ra đời sau đó vào những năm 1805, 1809, và 1814. Mặc dù đây là các hình thức biến đổi của Bô luật Sargent nhưng hệ thống tòa án quận và quyền lực đáng kể của các quan tòa vẫn tiếp tục. Trong khi tính chính danh của các thành viên thuộc tòa án lãnh thổ đầu tiên có thể bị nghi ngờ nhưng phẩm chất của các quan tòa tại các phiên tòa sau này phát triển đều đặn.[10]

Tôn giáo

Trong khi nhà thờ Công giáo hoạt động dọc theo duyên hải thì các hoạt động tôn giáo thuộc Tin Lành bắt đầu có mặt tại nội địa Lãnh thổ Mississippi sau năm 1799. Tư tưởng tự dọ, nghi kị, vô thần hay có khác biệt với tôn giáo là các đặc điểm của giới trồng trọt và nhà đầu cơ giàu có vì những người mới đến chỉ quan tâm hơn đến việc làm giàu trong thế giới này hơn là thế giới về sau. Các giáo phái Giám lý, Rữa tội, và Trưởng lão hình thành ba giáo phái dẫn đầu tại lãnh thổ. Các chức sắc Tin Lành giành được nhiều người cải đạo, thường xuyên đề cao giáo dục, và có một số ảnh hưởng trong việc cải thiện sự đối xử tử tế với người nô lệ.[11]